Kiểm tra 3 cạnh tam giác. Đề bài: Viết chương trình nhập ba số dương bất kỳ, kiểm tra ba số vừa nhập có phải là ba cạnh của tam giác không? Nếu phải thì cho biết chu vi và diện tích của tam giác đó. Hướng dẫn: Trong tam giác thì tổng 2 cạnh lớn cạnh còn lại và khi đã biết chi vi của tam giác thì bạn dùng
BlogAnChoi sẽ cùng bạn tìm hiểu 9 hiệu ứng tâm lý thường gặp trong tình yêu nhé. 1. Nguyên tắc gần gũi (Proximity Principle) Chúng ta dễ nảy sinh tình cảm với những người thường xuyên tiếp xúc và sống gần với mình. Trường học, nơi sinh viên đi cầu thang, ngồi chung bàn, làm việc chung nhóm, đó là những môi trường lý tưởng.
Tìm Trong Giấc Mơ - Đan Nguyên Oct. 15, 2022. Video. ASIA 80: The Celebration | Làn Gió Mới 2017. Album. Paris By Night 124 - Anh Cho Em Mùa Xuân 2018. Album. CD Chờ Thêm Một Đời Oct. 15, 2022. Video. Chuyện Tình Của Người Trinh Nữ Tên Thi - PBN 122. 0.
Tazama sở hữu kiến thức độc quyền giúp trẻ hóa tam giác mật và kích hoạt khoái cảm, cực khoái nữ. Được cập nhậtthường xuyên Các bài viết tại Tazama luôn được cập nhật thường xuyên với những thông tin mới nhất.
Là trung điểm của AC yêu cầu ta gồm GC = 2 GP mà vecto. ngược hướng. Do đó: D sai. Giải mê say A, B, C đúng: + vày G là trung tâm tam giác ABC. Suy ra B đúng. + vị M, N, p. Lần lượt là trung điểm của BC, CA, AB với G là trung tâm của tam giác ABC.
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Một trong những lý thuyết thú vị của tâm lý đề cập tới tình yêu là lý thuyết tam giác tình yêu A Triangular Theory of Love của R. Sternberg. Lý thuyết của ông cho rằng tình yêu được hình thành nên từ ba thành tố tạo nên một tam giác, đó làThân mật Intimacy là cảm giác gần gũi và gắn kết với đối phương. Đó là tình cảm gắn bó với người yêu, muốn làm cho cuộc sống của người yêu được tốt hơn. Chúng ta chân thành yêu mến họ và sung sướng khi họ ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta tin rằng họ sẽ ở bên cạnh ta trong những giờ phút khó khăn và chúng ta luôn cố gắng bên cạnh họ khi họ gặp khó khăn. Chúng ta muốn chia sẻ với họ các vấn đề sinh hoạt hàng ngày, ý nghĩ, tình cảm và muốn có những hoạt động chung với họ. Trên thực tế những sở thích và những công việc chung có thể là một trong những yếu tố có tính chất quyết định biến các quan hệ thân thiết thành quan hệ tình yêu hoặc vợ mê Passion Khái niệm này thực chất là sự ham mê thể xác, sự hưng phấn và những hành vi tình dục trong các mối quan hệ. Các nhu cầu tình dục là quan trọng, song không phải là các nhu cầu duy nhất thúc đẩy con người say mê lẫn nhau. Ở một số trường hợp, sự gần gũi có trước sự đam mê; Ở những trường hợp khác sự đam mê có thể có trước sự gần gũi. Ngoài ra, có trường hợp có đam mê mà không có sự gần gũi hoặc có gần gũi mà không có sự đam nhiệm/Cam kết Commitment Yếu tố này có các khía cạnh ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn - đó là quyết định có yêu hoặc có nhận thức được tình yêu. Dài hạn - đó là nhận thức tầm quan trọng của việc giữ gìn tình yêu tìm kiếm sự cân bằng giữa nhu cầu sinh lý về tình dục và nhu cầu tinh thần về tình yêu là điều cần thiết, mối quan hệ thiếu hoàn toàn 3 yếu tố trên sẽ không tồn tại tình yêuBa góc của tam giác tình yêu kết nối với nhau bởi ba cạnh, tạo nên 8 hình thái tình yêu cơ bản, có loại tình cảm có một yếu tố, có loại tình cảm lại do hai hay nhiều yếu tố hòa quyện với nhau. Những trạng thái tình cảm này cũng có thể thay đổi, chuyển hóa trong từng mối quan hệ cụ bạn/ thích LikingLoại tình cảm này là chỉ có thành phần thân mật hay sự thích thú liking nhất thời, thiếu đam mê và những cam kết dài hạn trong tình yêu. Nhưng tình bạn có thể là gốc rễ của những hình thức tình cảm yêu mê đắm Infatuated loveLoại tình cảm này được mô tả chỉ bởi cảm giác hấp dẫn và đam mê về mặt thể xác mà không có sự thích thú và tận tâm. Tình yêu cuồng dại không có đủ thời gian cho những cảm xúc thân mật sâu sắc hơn để tiến đến những giai đoạn khác như tình yêu lãng mạn, hay tình yêu hoàn toàn trong giai đoạn mới bắt đầu mối quan hình thức khác của tình yêu chỉ có thể được phát triển khi giai đoạn mê đắm giảm bớt. Sự mê đắm ban đầu thường mãnh liệt đến mức mọi người có thể "mang theo một ngọn đuốc" cho đối phương, không cần biết liệu nó có cần cho một tình yêu bền vững, sâu sắc và lâu yêu trống rỗng Empty loveLoại tình cảm này chỉ có sự cam kết mà thiếu đi cảm xúc say mê và thân mật. Đôi khi, một tình yêu mãnh liệt có biển chuyến xấu đi và trở thứ thành tình yêu trống rỗng. Điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Chẳng hạn, một cuộc hôn nhân sắp đặt có thể bắt đầu trống rỗng nhưng sau đó lại phát sinh và nảy nở thành một dạng tình cảm khác của tình yêu theo thời gian. Tình yêu lãng mạn Romantic loveTình yêu lãng mạn gắn kết tình cảm con người thông qua sự thân mật và đam mê thể xác. Đối tác trong mối quan hệ kiểu này có những cuộc trò chuyện sâu sắc giúp họ biết chi tiết hơn về nhau. Họ tận hưởng một niềm đam mê tình dục và tình cảm. Những cặp đôi này có thể đang ở thời điểm mà các cam kết dài hạn hoặc các kế hoạch trong tương lai vẫn chưa được quyết nghĩa Companionate LoveĐây là một loại tình yêu thân mật, nhưng không nồng nàn. Thành phần thân mật và thành phần cam kết của tam giác tạo nên tình yêu bạn đồng hành. Nó mạnh hơn tình bạn vì có sự cam kết lâu dài. Có ít hoặc không có ham muốn tình dục. Điều này thường được tìm thấy trong các cuộc hôn nhân nơi niềm đam mê đã chết, nhưng cặp đôi vẫn tiếp tục có tình cảm sâu đậm hoặc mối quan hệ bền chặt với nhau. Đây cũng có thể được xem là tình yêu giữa những người bạn rất thân và các thành viên trong gia yêu khờ dại Fatuous loveTrong loại tình yêu này, sự cam kết và đam mê có mặt trong khi không có sự thân mật hay thích thú. Tình yêu ban đầu xảy ra bởi một cuộc tán tỉnh, ve vãn chóng vánh và họ kết hôn ngay sau đó, khi niềm đam mê thúc đẩy một cam kết mà chưa có sự thân mật, gần gũi, gắn bó với nhau đủ nhiều. Thông thường, việc chứng kiến điều này khiến người ngoài nhìn vào rất bối rối khi vì sao cặp đôi này có thể đẩy tiến độ nhanh như vậy. Thật không may, những cuộc hôn nhân như thế thường không diễn ra một cách suôn sẻ và nếu họ kết hôn, thì chủ yếu là do "may mắn" mà thôiTình yêu trọn vẹn/ lý tưởng Consummate loveTình yêu hoàn hảo được tạo thành từ cả ba thành tố và là hình thức tổng thể của tình yêu. Nó đại diện cho một mối quan hệ lý tưởng. Các cặp đôi trải qua loại tình yêu này thường trải qua những cung bậc cảm xúc tuyệt vời về mặt thể xác trong nhiều năm trong mối quan hệ của họ. Họ không thể tưởng tượng mình với bất cứ ai khác ngoài kia. Họ cũng thấy mình không thực sự hạnh phúc khi không có người bạn đời hoàn hảo ấy bên cạnh. Họ luôn cố gắng để vượt qua những bất đồng và cùng nhau đối mặt với các vấn đề gây căng có tình yêu Non loveKhi không có sự có mặt của cả ba thành tố trên thì tình yêu sẽ không được hình thành. Đây là đặc trưng cho phần lớn các mối quan hệ cá nhân bao gồm những tương tác thông thường không tham gia vào tình liệu tham khảoRobert J. Sternberg 1986, A Triangular Theory of Love.
Tại sao nhân loại lại có tình yêu? Tại sao có một số dạng tình yêu bền lâu và có loại lại chỉ thoáng qua? Các nhà nghiên cứu và các nhà tâm lý học đã đặt ra một số học thuyết khác nhau về tình yêu để giải thích sự hình thành và kéo dài của phạm trù này. Why do people fall in love? Why are some forms of love so lasting and others so fleeting? Psychologists and researchers have proposed several different theories of love to explain how love forms and endures. Nguồn Author Love Yêu là cảm xúc cơ bản của con người, nhưng hiểu được cách xuất hiện và lý do nó xuất hiện không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong thực tế, có một thời gian khá dài, nhiều người cho rằng tình yêu đơn giản là một thứ quá đỗi nguyên thủy, bí ẩn và nhuốm màu tâm linh, nên khoa học chẳng thể nào hiểu được cặn kẽ. Love is a basic human emotion, but understanding how and why it happens is not necessarily easy. In fact, for a long time, many people suggested that love was simply something too primal, mysterious, and spiritual for science to ever fully understand. Sau đây là bốn học thuyết lớn được đặt ra để giải thích tình yêu và những mối gắn bó khác về cảm xúc. The following are four of the major theories proposed to explain love and other emotional attachments. Thích và Yêu. Liking vs. Loving Nhà tâm lý học Zick Rubin cho rằng tình yêu đôi lứa được hình thành từ 3 thành tố Psychologist Zick Rubin proposed that romantic love is made up of three elements – Sự gắn bó. Attachment – Sự quan tâm. Caring – Sự gần gũi. Intimacy Rubin tin rằng có đôi khi chúng ta cảm thấy coi trọng và ngưỡng mộ ai đó thật nhiều. Ta tận hưởng thời gian bên họ và muốn ở quanh họ, nhưng điều này không phải lúc nào cũng là yêu. Thay vào đó, Rubin gọi đây là Thích. Yêu, ngược lại, sâu sắc hơn, đậm đà hơn và chứa đựng một ham muốn tiếp xúc và chung đụng cơ thể một cách mãnh liệt. Những người đang “thích” nhau đơn giản là thích ở bên cạnh người kia, còn những người đang “yêu”, họ quan tâm nhiều đến nhu cầu của đối phương chẳng kém gì nhu cầu của bản thân. Rubin believed that sometimes we experience a great amount of appreciation and admiration for others. We enjoy spending time with them and want to be around them, but this doesn’t necessarily qualify as love. Instead, Rubin referred to this as liking. Love, on the other hand, is much deeper, more intense, and includes a strong desire for physical intimacy and contact. People who are “in like” enjoy each other’s company, while those who are “in love” care as much about the other person’s needs as they do their own. Gắn bó là nhu cầu nhận được sự quan tâm, chấp thuận, và tiếp xúc cơ thể với người kia. Quan tâm là coi trọng nhu cầu và niềm hạnh phúc của người kia không kém gì bản thân mình. Sự gần gũi thân mật là chia sẻ suy nghĩ, ước muốn, và cảm xúc với đối phương. Attachment is the need to receive care, approval, and physical contact with the other person. Caring involves valuing the other person needs and happiness as much as your own. Intimacy refers to the sharing of thoughts, desires, and feelings with the other person. Dựa trên định nghĩa này, Rubin sáng tạo ra một bảng hỏi để đánh giá thái độ của một người về người kia và phát hiện ra những câu hỏi thang đo về yêu và thích này giúp ông củng cố những quan niệm của mình về tình yêu. Based upon this definition, Rubin devised a questionnaire to assess attitudes about others and found that these scales of liking and loving provided support for his conception of love. Khi bạn thích ai đó, bạn không ngừng trêu chọc họ. Nhưng khi bạn yêu người ấy, bạn sẽ chăm sóc và ngưng trêu chọc họ. Nguồn YourQuote Tình yêu Đồng hành với Tình yêu Đam mê. Compassionate vs. Passionate Love Nguồn Pinterest Theo nhà tâm lý học Elaine Hatfield và cộng sự của bà, có 2 kiểu tình yêu According to psychologist Elaine Hatfield and her colleagues, there are two basic types of love – Tình yêu đồng hành. Compassionate love – Tình yêu đam mê. Passionate love Tình yêu đồng hành được định hình bởi sự tôn trọng lẫn nhau, sự gắn bó, yêu thương và tin tưởng. Tình yêu đồng hành thường hình thành từ cảm giác thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau. Compassionate love is characterized by mutual respect, attachment, affection, and trust. Compassionate love usually develops out of feelings of mutual understanding and shared respect for one another. Tình yêu đam mê được định hình bởi những cảm xúc mãnh liệt, thu hút về mặt tình dục, nỗi lo âu và tình yêu thương. Khi những cảm xúc mãnh liệt được đối phương đáp lại, con người ta cảm thấy mình phấn chấn và thỏa mãn. Tình yêu này nếu không được đáp lại sẽ đưa đến cảm xúc thất vọng và chán nản. Hatfield cho rằng tình yêu đam mê chỉ tồn tại ngắn ngủi, thường là từ 06 đến 30 tháng. Passionate love is characterized by intense emotions, sexual attraction, anxiety, and affection. When these intense emotions are reciprocated, people feel elated and fulfilled. Unreciprocated love leads to feelings of despondency and despair. Hatfield suggests that passionate love is transitory, usually lasting between 6 and 30 months. Hatfield cũng cho rằng tình yêu đam mê xuất hiện khi những mong đợi về văn hóa thúc đẩy con người ta phải lòng nhau, khi một người gặp được một người tình theo đúng lý tưởng sẵn có của mình, và khi bạn cảm thấy bị kích thích mãnh liệt về cơ thể với người kia. Hatfield also suggests that passionate love arises when cultural expectations encourage falling in love, when the person meets your preconceived ideas of an ideal love, and when you experience heightened physiological arousal in the presence of the other person. Lý tưởng mà nói, tình yêu đam mê sau đó sẽ thường chuyển biến thành tình yêu đồng hành bền chặt hơn. Mặc dù hầu hết mọi người đều muốn có được những mối quan hệ vừa an toàn, vừa có sự ổn định của tình yêu đồng hành lại vừa có sự mãnh liệt của tình yêu đam mê, nhưng Hatfield tin rằng sự kết hợp này là khá hiếm gặp. Ideally, passionate love then leads to compassionate love, which is far more enduring. While most people desire relationships that combine the security and stability of compassionate with intense passionate love, Hatfield believes that this is rare. Bánh xe màu sắc tình yêu. The Color Wheel Model of Love Nguồn Hugh Fox III Trong cuốn sách “Màu sắc tình yêu” xuất bản năm 1973 của mình, nhà tâm lý học John Lee so sánh các kiểu tình yêu như một bánh xe màu sắc. Cũng giống như màu sắc có ba tông cơ bản thì Lee cho rằng tình yêu cũng có 3 “tông” chính. Ba “tông” này là In his 1973 book The Colors of Love, psychologist John Lee compared styles of love to the color wheel. Just as there are three primary colors, Lee suggested that there are three primary styles of love. These three styles of love are – Yêu nồng nàn Từ Eros xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “đam mê” hay “gợi tình.” Lee cho rằng kiểu tình yêu này vừa có sự đam mê về thể xác và cảm xúc. Eros The term eros stems from the Greek word meaning “passionate” or “erotic.” Lee suggested that this type of love involves both physical and emotional passion. – Yêu bỡn cợt Ludos theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “trò chơi.” Kiểu tình yêu này thường như kiểu đùa vui, bỡn cợt, không phải lúc nào cũng nghiêm túc. Những người có kiểu yêu này thường không sẵn sàng cam kết bất kỳ điều gì và luôn cảnh giác khi thấy sự gần gũi tiến đi quá xa. Ludos Ludos comes from the Greek word meaning “game.” This form of love is conceived as playful and fun, but not necessarily serious. Those who exhibit this form of love are not ready for commitment and are wary of too much intimacy. – Yêu trong sáng Storge trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tình yêu thương tự nhiên.” Dạng tình yêu này thường đại diện bởi tình yêu thương gia đình, giữa cha mẹ và con cái, anh chị em, và những người trong dòng họ. Dạng tình yêu này có thể cũng hình thành từ tình bạn giữa những người có chung mối quan tâm và cam kết, từ đây họ dần hình thành tình yêu thương với người kia. Storge Storge stems from the Greek term meaning “natural affection.” This form of love is often represented by familial love between parents and children, siblings, and extended family members. This type of love can also develop out of friendship where people who share interests and commitments gradually develop affection for one another. Cứ tiếp tục suy luận theo bánh xe tình yêu màu sắc này, Lee cho rằng các tông màu cơ bản có thể kết hợp với nhau để tạo ra những màu khác, ba kiểu tình yêu cơ bản này có thể hợp lại để tạo ra 9 kiểu tình yêu thứ cấp khác. Ví dụ, kết hợp Tình Yêu Nồng Nàn và Tình Yêu Bỡn Cợt ta sẽ có Tình Yêu Ám Ảnh. Continuing the color wheel analogy, Lee proposed that just as the primary colors can be combined to create complementary colors, these three primary styles of love could be combined to create nine different secondary love styles. For example, combining Eros and Ludos results in mania or obsessive love. 3 kiểu chính Three primary styles Yêu Nồng Nàn – Yêu một người đúng lý tưởng. Eros –Loving an ideal person Yêu Bỡn Cợt – Tình yêu như một trò chơi. Ludos – Love as a game Yêu Trong Sáng – Tình yêu như tình bạn. Storge – Love as friendship 3 kiểu thứ cấp Three secondary styles Yêu Ám Ảnh Yêu Nồng Nàn + Yêu Bỡn Cợt – Luôn bị tình yêu ám ảnh. Mania Eros + Ludos – Obsessive love Yêu Thực Dụng Yêu Bỡn Cợt + Yêu Trong Sáng – tình yêu mang tính thực tế và thực dụng. Pragma Ludos + Storge – Realistic and practical love Yêu vị tha Yêu Nồng Nàn + Yêu Trong Sáng – Một tình yêu không màng đến bản thân mình. Agape Eros + Storge – Selfless love Học thuyết tam giác tình yêu. Triangular Theory of Love Nguồn Pinterest Nhà tâm lý học Robert Sternberg đưa ra học thuyết Tam giác tình yêu, phát biểu rằng tình yêu có 3 thành tố Psychologist Robert Sternberg proposed a triangular theory suggesting that there are three components of love – Gần gũi. Intimacy – Đam mê. Passion – Cam kết. Commitment Những sự kết hợp của 3 thành tố này sẽ tạo ra những dạng thức tình yêu khác nhau. Ví dụ, kết hợp Gần Gũi và Cam Kết sẽ tạo ra tình yêu đồng hành, kết hợp Đam Mê và Gần Gũi sẽ cho ra tình yêu lãng mạn. Different combinations of these three components result in different types of love. For example, combining intimacy and commitment results in companionate love, while combining passion and intimacy leads to romantic love. Theo Sternberg, các mối quan hệ xây dựng dựa từ 2 thành tố trở lên sẽ dài lâu hơn những mối quan hệ chỉ dựa trên một thành tố. Sternberg sử dụng thuật ngữ tình yêu trọn vẹn để mô tả sự kết hợp giữa Đam Mê, Gần Gũi và Cam Kết. Mặc dù dạng tình yêu này là mạnh mẽ và bền lâu nhất nhưng Sternberg cũng cho rằng loại tình yêu này vô cùng hiếm. According to Sternberg, relationships built on two or more elements are more enduring than those based on a single component. Sternberg uses the term consummate love to describe combining intimacy, passion, and commitment. While this type of love is the strongest and most enduring, Sternberg suggests that this type of love is rare. Tham khảo. View Article Sources Hatfield, E., & Rapson, R. L. Love, sex, and intimacy Their psychology, biology, and history. New York HarperCollins; 1993. Lee, The Colors of Love. New York Prentice-Hall; 1976. Rubin, Z. “Measurement of romantic love.” Journal of Personality and Social Psychology, 1970, 16 265-273. Sternberg, The Triangle of Love Intimacy, Passion, Commitment. New York Basic Books; 1988. Nguồn Như Trang.
MỖI NÚT LIKE TRÊN FANPAGE NEGE TEAM LÀ MỘT NGUỒN ĐỘNG LỰC CHO BỌN MÌNH CỐ GẮNG HƠN. Mọi người ơi hãy ủng hộ chúng mình bằng những cmt xinh xinh và những cái like thặc nà đáng yêu của mọi người nhé, để bọn mình được boost thêm sức mạnh cống hiến tiếp cho mọi người nhiều nhiều sản phẩm hay hơn nhe
The triangular theory of love characterizes love in an interpersonal relationship on three different scales intimacy, passion, and commitment. Different stages and types of love can be explained as different combinations of these three elements; for example, the relative emphasis of each component changes over time as an adult romantic relationship develops. According to the author of the theory, psychologist Robert Sternberg, a relationship based on a single element is less likely to survive than one based on two or more. Lý thuyết về tam giác tình yêu mô tả tình yêu trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân dựa trên ba tiêu chí khác nhau sự hiểu biết, sự đam mê, và trách nhiệm. Những sự kết hợp không giống nhau giữa ba yếu tố này có thể giải thích được những giai đoạn cũng như những cách thức yêu khác nhau trong tình yêu; ví dụ như, tầm quan trọng tương đối của mỗi yếu tố sẽ thay đổi theo thời gian khi mà mối quan hệ mang tính chất lãng mạn và trưởng thành về mặt tình cảm ngày càng phát triển. Theo tác giả của lý thuyết này, nhà tâm lý học Robert Sternberg, một mối quan hệ chỉ dựa vào một yếu tố đơn lẻ thì sẽ có ít khả năng tồn tại hơn mối quan hệ được đặt nền tảng dựa trên hai yếu tố hoặc nhiều hơn. The Eight Forms of Love The combinations of intimacy, passion, and commitment Tám Dạng Thức Của Tình Yêu Những sự kết hợp giữa sự hiểu biết, sự đam mê, và trách nhiệm IntimacySự hiểu biết PassionSự đam mê CommitmentTrách nhiệm Nonlove LikingThích X InfatuationSự bồng bột X Empty loveTình yêu trống rỗng X Romantic loveTình yêu lãng mạn X X Companionate loveTình yêu bầu bạn X X Fatuous loveTình yêu khờ dại X X Consummate loveTình yêu trọn vẹn X X X Nonlove Không Có Tình Yêu Nonlove is the absence of all three of Sternberg’s components of love. Không Có Tình Yêu nghĩa là thiếu vắng tất cả ba yếu tố cấu thành tình yêu mà Sternberg đã đề cập đến. Liking or Friendship Thích hay Tình Bạn Liking in this case is not used in a trivial sense. Sternberg says that this intimate liking characterizes true friendships, in which a person feels a bondedness, a warmth, and a closeness with another but not intense passion or long-term commitment. Thích trong trường hợp này không hiều theo nghĩa tầm thường. Sternberg nói rằng sự thích nhau mang tính thân mật này mô tả một tình bạn thật sự mà ở trong đó, người này cảm nhận được sự bảo đảm, sự nhiệt tình, và một sự gần gũi với người kia nhưng lại không tồn tại một đam mê mãnh liệt hay yếu tố trách nhiệm về lâu về dài nào. Infatuation Love Tình Yêu Cuồng Dại Infatuated love is often what is felt as “love at first sight”. But without the intimacy and the commitment components of love, infatuated love may disappear suddenly. Tình Yêu Cuồng Dại có thể được cảm nhận như kiểu “tình yêu sét đánh” “tình yêu ở cái nhìn đầu tiên”. Nhưng nếu vắng bóng hai yếu tố là sự hiểu biết và trách nhiệm thì kiểu tình yêu này có thể bất chợt biến mất. Empty Love Tình Yêu Trống Rỗng Sometimes, a stronger love deteriorates into empty love, in which the commitment remains, but the intimacy and passion have died. In cultures in which arranged marriages are common, relationships often begin as empty love and develop into one of the other forms with the passing of time. Đôi khi, một tình yêu mãnh liệt hơn lại có thể bị giảm sút và biến thành cái gọi là tình yêu trống rỗng, ở đó, yếu tố trách nhiệm vẫn còn, nhưng sự hiểu biết và đam mê đã biến mất. Trong những nền văn hóa mà cuộc hôn nhân được sắp đặt mang tính chất phổ biến thì những mối quan hệ thường bắt đầu dưới hình thức tình yêu trống rỗng và theo thời gian tình cảm ấy phát triển thành những dạng thức khác của tình yêu. Romantic Love Tình Yêu Lãng Mạn Romantic lovers are bonded emotionally as in liking and physically through passionate arousal. Những người yêu nhau theo kiểu tình yêu lãng mạn có sự bảo đảm với nhau về mặt tình cảm giống như sự Thích và về mặt thể xác thông qua những khơi gợi nồng nàn, say đắm. Companionate Love Tình Yêu Bầu Bạn Companionate love is often found in marriages in which the passion has gone out of the relationship, but a deep affection and commitment remain. Companionate love is generally a personal relation you build with somebody you share your life with, but with no sexual or physical desire. It is stronger than friendship because of the extra element of commitment. The love ideally shared between family members is a form of companionate love, as is the love between deep friends or those who spend a lot of time together in any asexual but friendly relationship. Tình yêu bầu bạn thường thấy ở những cuộc hôn nhân mà trong đó, s ự đam mê đã biến mất khỏi mối quan hệ tuy nhiên sự yêu mến sâu sắc và yếu tố trách nhiệm thì vẫn còn. Tình cảm này nhìn chung là một kiểu quan hệ cá nhân bạn có thể xây dựng được với một người mà bạn chia sẻ cuộc sống cùng với họ nhưng không có ham muốn nào về mặt tình dục hay thể xác. Nó hẳn nhiên mạnh mẽ hơn tình bạn vì có thêm sự góp mặt của yếu tố trách nhiệm. Tình yêu được chia sẻ theo lý tưởng giữa những thành viên trong gia đình với nhau cũng là một dạng tình yêu bầu bạn, cũng giống như tình cảm giữa những người bạn thân hay giữa những người đã cùng trải qua một khoảng thời gian dài cùng nhau mà mối quan hệ giữa họ không hề bị ràng buộc bởi tình dục dù không phải là một quan hệ thân mật. Fatuous Love Tình Yêu Khờ Dại Fatuous love can be exemplified by a whirlwind courtship and marriage in which a commitment is motivated largely by passion, without the stabilizing influence of intimacy. Tình yêu khờ dại có thể ví như một cơn gió lốc giữa việc tìm hiểu nhau và rồi đi đến hôn nhân mà ở đó, yếu tố trách nhiệm được thúc đẩy bởi sự đam mê chứ không phải do ảnh hưởng của sự hiểu biết lẫn nhau nhằm tạo ra sự ổn định. Consummate Love Tình Yêu Trọn Vẹn Consummate love is the complete form of love, representing the ideal relationship toward which many people strive. Sternberg cautions that maintaining a consummate love may be even harder than achieving it. He stresses the importance of translating the components of love into action. “Without expression,” he warns, “even the greatest of loves can die”. Consummate love may not be permanent. For example, if passion is lost over time, it may change into companionate love. Tình yêu trọn vẹn là dạng thức hoàn hảo của tình yêu, nó tượng trưng cho mối quan hệ lý tưởng mà nhiều người phấn đấu đạt được. Sternberg báo trước rằng việc duy trì một tình yêu trọn vẹn thậm chí có thể còn khó hơn cả việc đạt được nó. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc biến những yếu tố cấu thành tình yêu đã nêu ở trên trở thành hành động. “Thiếu đi sự thể hiện,” ông cảnh báo, “thì ngay cả những mối tình tuyệt vời nhất cũng có thể kết thúc”. Tình yêu trọn vẹn có thể không là vĩnh cửu. Bởi lẽ, chẳng hạn như, nếu sự đam mê về mặt thể xác biến mất qua thời gian thì tình cảm giữa hai người có thể chỉ còn là tình yêu bầu bạn. Collected and translated into Vietnamese by Kate Conan… Nhãn love, misc This entry was posted on Tháng Mười 26, 2007 at 1017 sáng and is filed under Uncategorized. You can follow any responses to this entry through the RSS feed. You can leave a response, or trackback from your own site.
tam giac tinh yeu